Lama
Diễm Âu
1.
Khoảng
thời gian năm tôi lên tám, lên chín tuổi, lâu lâu vào
ngày Chủ Nhật, bố mẹ tôi vẫn hay dắt chị em chúng
tôi tới một tiệm sách chuyên bán sách báo của Pháp nằm
xế bên hông Vương Cung Thánh Đường Sàigòn. Cái không
khí tĩnh lặng, tinh khôi, trong vắt như một ly nước suối
trong tiệm sách đó đã luôn luôn là cảm giác rất quyến
rũ cho một đứa bé sớm thích mơ mộng như tôi. Tôi nhớ
mang máng (và không biết mình có nhớ lầm không), phía
trên những kệ sách dài khắp bốn bờ tường là những
khung kính hình chữ nhật, nơi những khoanh nắng rất tươi
của buổi sáng luôn hối hả luồn vào. Tiệm sách sáng
trong, ánh sáng cũng tinh khôi như ly nước suối. Có những
hôm, tôi ngồi khoanh chân dưới đất, trong lòng ôm một
quyển sách mở toang. Tôi giở nhẹ từng trang giấy, và
lúc đó, thầm ước, phải chi có một ông nhà văn nào
đó, chẳng hạn như là người đã viết cái quyển sách
đang mở toang trong lòng tôi này, tình cờ bước chân vào
tiệm sách, tình cờ nhìn thấy tôi với quyển sách của
ông... Ông sẽ cúi xuống mỉm cười với tôi, xoa tóc
tôi, và sẽ hỏi, bé con, em thích nhất trang nào trong
quyển sách của tôi, em có muốn đóng vai con bé con trong
đêm khuya khoắt bị sai đi lấy gầu ra giếng kéo nước
trong truyện của tôi không? Và tôi sẽ gật đầu, và sẽ
trả lời ông rằng, vâng, em thích được đóng vai con bé
bị hất hủi ấy lắm, và em sẽ đóng... rất hay!
Buồn
cười, tôi luôn luôn hay mơ mộng những chuyện lăng nhăng
và buồn cười như thế! Và tôi hay mơ mộng lăng nhăng
như thế là bởi vì tôi ít khi thích bỏ thời giờ ra
ngồi nhá mấy quyển sách Pháp văn mà chúng tôi bị bắt
phải đọc trong trường. Thường thường, tôi chỉ đọc
đoạn nào tôi thích nhất, rồi tha hồ vẽ ra những bức
tranh tưởng tượng trong đầu. Tranh mặc tình nhảy muá
uyển chuyển như sóng lụa, tôi cũng mải mê uốn mình
bay bổng trên sóng lụa, đợt ngày tiếp đợt kia, quên
tuốt mất những trang còn lại trong cuốn sách cần phải
đọc, nên cuối cùng , có nhớ được gì đâu! Lý do là
bởi vì tôi yêu tiếng Việt và say mê đọc sách, đọc
truyện tiếng Việt hơn cả, nhất là sử Việt, bởi thế,
Pháp văn tôi chưa từng bao giờ giỏi ngày nào, vốn liếng
chỉ vừa đủ dùng mà thôi!
Nhưng
thủa ấy, tôi thích đọc, hay xem, truyện hình "Tin-Tin"
bằng tiếng Pháp lắm (bởi vì nó nhiều hình, ít chữ!).
Và lạ lùng thay, bây giờ, hơn ba mươi mấy năm sau, tôi
mới hiểu ra được rằng, chính "Tin-Tin" đã là
cái giềng mối sớm nhất và đầu tiên nhất trong đời
gợi cho tôi nhớ lại được những quan hệ cội rễ vô
cùng mật thiết bắt nguồn từ những... tiền kiếp xa
xôi!
Buổi
trưa hôm ấy, tôi đã ngồi xem "Tin-Tin" trên chiếc
giường mà tôi ngủ với bà tôi mỗi tối, vừa xem vừa
cười khúc khích. Nhưng chỉ mới đọc được vài trang
thì tôi đã khựng lại. Trong tranh, tôi nhớ , có vẽ hình
con thú bốn chân trông giống một con lừa. Đó là một
con... la ở xứ Peru! Người dẫn đường bản xứ, một
anh trai trẻ người Peru đội mũ quấn khăn sặc sỡ, đã
cắt nghĩa cho Tin-Tin biết... đây là con "lama"
(La-ma), cẩn thận nhé, khi nào nó giận thì nó phun nước
miếng đấy! Anh ta phải cắt nghĩa như vậy vì con lừa
mất lịch sự ấy vừa mới phun xong nước miếng vào mặt
ông già thuyền trưởng đang đứng sớ rớ ngay đó không
thương xót. Ít phút trước đó, nó đã bị ông ta chọc
ghẹo! Cuối cùng, trước khi quay lưng bỏ đi, hình như
ông bạn già lẩm cẩm này của Tin-Tin đã vùng vằng la
lên mắng nó, đại khái..."đồ con la-ma".
Tôi
đọc đến đây thì... khựng lại. Tôi còn nhớ như in
cái cảm giác ngỡ ngàng, tột cùng ngỡ ngàng trong lòng
vào giây phút ấy! Ba mươi mấy năm sau, mà cái cảm giác
ngỡ ngàng vẫn còn hiện rõ như một vết cắt ngọt sớt
trên mảnh da non khi hồi nhớ lại. Tôi đã ngồi thừ rất
lâu, cố moi móc trong đầu ra xem tại sao con lừa ngu ngốc
và kém lịch sự này lại có tên là con La-ma như vậy.
Lúc ấy, tôi đã lý luận rất đơn sơ rằng, đây là con
lừa, không phải con... La-ma, và nếu hỏi tôi tại sao tôi
quả quyết như thế thì tôi không trả lời được . Đơn
giản lắm, tôi nghĩ, La-ma là... La-ma, là tiếng gọi một..
cái gì khác, nhưng nhất quyết, không phải tiếng để
gọi con lừa! Cái cảm giác ngỡ ngàng và khó chịu đã
đeo theo tôi suốt buổi, cho đến tối. Ăn cơm xong, tôi
lấy quyển sách truyện hình ra đưa cho bố tôi xem. Tôi
chỉ tay vào hình con lừa xứ Peru và hỏi bố tôi rằng,
"tại sao" người ta lại gọi con lừa này là con
La-ma vậy hở Bố? Lúc hỏi câu hỏi ấy xong, tôi chỉ
mong chờ thấy bố tôi nhíu mày lại, hay cũng kêu lên một
tiếng gì đó biểu lộ sự ngạc nhiên chẳng hạn. Nhưng
ông không ngạc nhiên, và cũng chẳng nhíu mày. Ông đã
trả lời hết sức hồn nhiên và điềm đạm, đâu có gì
"tại sao" đâu con, đây là một con lừa, nhưng
người dân Peru gọi nó là con "Llama" (La-ma) ,
tiếng đó cũng có nghĩa giống như là con lừa, giống như
tiếng Pháp người ta gọi con lừa là "l'âne" (
đọc âm là 'lan', chú thích của người viết). Tôi đã
im mất một lúc lâu sau đó. Rồi tôi ngớ ngẩn nhắc lại
cái lý luận rất đơn sơ và cũng rất ngớ ngẩn của
mình... Tôi nói một cách cương quyết:
-
Bố ơi Bố, nhưng mà La-ma không phải là con lừa! La-ma là
tiếng để gọi... cái gì khác!
Bố
tôi hỏi tôi:
-
Vậy thì con nghĩ đó là tiếng gọi... cái gì?
Tôi
lắc đầu:
-
Con không biết. Bố không biết thật hay sao Bố?
Bố
tôi cũng lắc đầu. Và câu chuyện buổi tối của hai bố
con tôi chấm dứt ở đó! Quahôm sau, tôi hỏi mẹ tôi,
rồi hỏi bà ngoại tôi, cùng một câu hỏi ấy. Qua hôm
sau nữa, tôi đem sách truyện ra chỉ cả cho hai chị giúp
việc trong nhà tôi xem, và cũng hỏi cùng một câu hỏi
ấy. Tôi vào lớp học, chờ đúng lúc (hay không hẳn
là... đúng lúc), giơ tay lên hỏi cô giáo, hỏi Soeur giám
thị, hỏi luôn mấy con bé bạn thân nhất của tôi, rằng
"La-ma" có phải "đúng" là tiếng gọi một
con lừa không, rồi vội vàng lập lại điều tôi quả
quyết, rằng con lừa "không thể" là... "La-ma"
được! Lẽ dĩ nhiên, mỗi người trả lời tôi hoặc góp
ý với tôi một cách khác, tùy theo trình độ hiểu biết
của từng người, nhưng chẳng có một ai nói lên điều
tôi mong mỏi cả!
Ba
mươi mấy năm sau, khi ngồi viết lại những giòng này,
tôi thấy trong lòng một niềm vui nhẹ nhàng như hương
trà buổi sớm, khói mỏng manh quyện lên cao, dấy lên
những cánh cung tròn lơ lửng. Không biết bám vào đâu,
mà cũng chẳng bám vào đâu. Ôi, con La-ma của tôi!
Tôi
thấy tôi thật buồn cười, và... ngây thơ không kém gì
cái cậu-bé-tác-giả St. Exupéry của truyện Hoàng-Tử-Bé
! Cũng gần gần, đâu đó! Lên sáu tuổi, cậu vẽ bức
tranh một con trăn quấn mồi, nuốt tuột con mồi vào
bụng. No nê, bụng trăn căng phình lên, to như cái trống
với một cái lõm lún xuống ngay giữa bụng. Câụ đem
bức hình đi khoe với mọi người, gặp người quen người
lạ nào cậu cũng hỏi, có biết em vẽ cái gì đây không?
Ai cũng trả lời cậu, đây là cái mũ, em vẽ cái mũ,
phải không? Cậu lắc đầu, trong lòng buồn bã. Không,
đây là con trăn nuốt mồi, bụng nó căng cứng, phình to
lên đó! Mọi người nhìn cậu trố mắt, chẳng biết
phải nói năng gì. Rồi cậu thôi, không vẽ nữa, chẳng
buồn vẽ nữa. Cậu bỏ mộng làm họa sĩ vì cái kinh
nghiệm vẽ vời không được mấy vừa ý của những ngày
bé thơ. Cho đến khi cậu trở thành một người đàn ông,
điềm nhiên, chững chạc. Người đàn ông quên mất
chuyện con trăn-cái mũ và giấc mộng vẽ vời, say mê học
lái máy bay, trở thành một phi công tài giỏi. Người phi
công đó đã được gặp Hoàng-Tử-Bé trong một hoàn cảnh
cực kỳ lạ lẫm, không thể ngờ trước được, và ông
bắt đầu vẽ trở lại, vì người bạn tí hon của ông,
là người cũng có thể nhìn thấy được con mồi trong
bụng chú trăn tham ăn. Mà còn hơn thế nữa, bạn ông còn
thấy được cả con cưù con hiền lành ngơ ngác trong bức
hình ông vẽ một chiếc hộp kín bưng nữa kìa!
Hỏi
mãi về La-ma không xong, tôi cũng đành... thôi không hỏi
nữa. Nhưng cái cảm giác lấn cấn cứ còn nguyên vẹn
trong lòng. Như một hạt cát mỏng kẹt đâu đó trong
chiếc giầy đang mang vừa chân. Cho đến năm cả gia đình
chúng tôi chạy tỵ nạn sang Hoa Kỳ, hạt cát mỏng lâu
lâu vẫn làm chân tôi ngưa ngứa, chỉ vừa đủ ngưa ngứa
thôi chứ không còn ngỡ ngàng , khó chịu như buổi đầu
tiên. Tôi vào lớp Bảy, ghi tên đủ hết cả các môn
học, kể cả Pháp văn. Khi bắt đầu quen thân với bà
giáo dạy Pháp văn hơn, tôi lại tự động đem câu hỏi
cũ ra nhào nắn. Mười ba tuổi, khôn ngoan hơn một chút,
tôi biết đặt vấn đề một cách dè dặt hơn, và không
cả quyết điều gì nữa hết. Tôi hỏi, thưa Bà, tôi đọc
thấy trong truyện người ta viết con lừa bên Peru họ gọi
là con Llama (La-ma), như thế có đúng không ạ? Có phải
đúng là có một giống vật giống con lừa gọi là con...
Llama không thưa Bà? Lẽ dĩ nhiên, bà giáo Pháp văn vui vẻ
gật đầu! Tôi liền vào thư viện trong trường, tìm sách
về... Peru để đọc, và lục tự điển tìm chữ "Llama"
để tra! Đó là vào khoảng năm 75, 76. Hơn hai mươi lăm,
hai mươi sáu năm trước, hoặc là sách giáo khoa và tự
điển ở Hoa Kỳ vẫn còn thiếu sót nhiều lắm, tầm
nhìn của soạn giả thu hẹp trong văn hoá và địa lý của
Mỹ Châu và Ấu Châu, hoặc là vì nhân duyên chưa đủ
nên tôi tra không đúng được một quyển tự điển có
tầm nhìn bao quát hơn cũng không biết chừng... Dù sao đi
nữa, điều gì tôi tìm thấy trong sách hay trong tự điển
vào thời gian đó cũng đều công nhận những câu trà lời
tôi đã đuợc nghe từ bao lâu nay.
Tôi
bỏ cuộc, không đi tìm La-ma (mà-không-phải-là-con-lừa-xứ-Peru)
nữa!
Tôi
lớn lên, trở thành một cô gái dậy thì, thích mơ mộng,
biết yêu rất sớm, rồi trở thành vợ, thành mẹ, và
sống êm đềm trong cái tổ chim ấm áp có lót những cọng
rơm hiu hiu vàng còn thơm nức hương mùa xuân. Tôi học
vẽ, rồi bỏ vẽ. Mon men viết văn, rồi bỏ viết văn.
Làm kiến trúc, rồi bỏ kiến trúc. Theo Kháng Chiến, bỏ
Kháng Chiến. Học Hán văn, bỏ Hán văn. Say mê sách thiền,
rồi bỏ cả sách thiền. Chuyện gì tôi cũng làm nửa
chừng, dang dở. Nhưng tôi không thấy tiếc nuối hay khó
chịu với những cái dang dở của tôi. Buồn cười thế
đấy! Lúc nào cũng có những chuyện "mới mẻ"
khác đang chờ, những cánh buồm no căng mới đang chực
giong ra khơi. Lâu lâu, rảnh rang một chút, tôi lại ngồi
lan man nghĩ đến con... La-ma của tôi! Rồi tôi nghiệm
thấy rằng, hình như chỉ có mỗi mình câu chuyện dang dở
này là vẫn còn làm tôi băn khoăn, khó chịu mỗi khi nhớ
đến, có lạ lùng chưa!
2.
Và
cứ thế, mãi sau này, cho đến ngày hôm nay (và biết
đâu... sau hơn nữa), truyện trẻ thơ luôn luôn trở thành
những đầu mối tháo gỡ được những gút mắc trong
tôi.
Lạ
thật! Như con lừa kém lịch sự trong một quyển truyện
bằng tranh!
Khoảng
giữa năm 1990, khi chúng tôi có ý định thụ thai để
mang vào đời những hạt giống mới, chồng tôi mua về
làm quà cho tôi một quyển truyện bằng tranh rất dễ
thương (chắc chắn là dễ thương gấp bội phần truyện
bằng tranh của Tin-Tin và con lừa kém lịch sự). Quyển
truyện mang tên, Những Rặng Núi Ở Tây-Tạng, trong đó
có những bức họa màu sắc tươi vui, nét vẽ đơn sơ
mềm mại. Chồng tôi viết, "để em-bé-Mẹ đọc cho
em-bé-Con nghe"... Anh biết vốn dĩ tôi cũng vẫn còn
ưa thích truyện trẻ con lắm. Tôi luôn luôn tìm thấy
trong đó những khám phá mới mẻ, nhẹ nhàng nhưng lại
rất... vằng vặc. Cũng có thể, tôi nghĩ, truyện trẻ
con vừa giống như là nắng đầu ngày, vừa giống cả bờ
hồ phản ảnh ánh trăng vào đêm. Người ta thức dậy
buổi sáng, ngắm ánh nắng ban mai chan hòa, rồi hấp tấp
vội vàng đến sở. Quên lửng mất đi. Khuya về, tình cờ
bắt gặp mảnh trăng lung linh trên nước, có thể người
ta sẽ nhớ đến nắng sớm mai, mà cũng có thể... sẽ
không hề nhớ đến. Nhưng không có nắng đó, thì làm gì
có được trăng đó? Thi sĩ hay làm thơ ca tụng ánh trăng
non, trăng ngà, mà quên mất bầu mặt trời vòi vọi. Bởi
thế tôi vẫn thường hay nghĩ đến những quyển sách
truyện bé thơ như những luồng sáng non, mà về đêm, nếu
để lòng lắng xuống một chút, chúng ta cũng có thể bắt
gặp được luồng sáng non đó trên một chiếc tô ngà,
chiếc tô trăng tròn xoe, nạm vàng, đang nhởn nhơ dầm
mình trong nước mát.
Quà
tặng của chồng tôi là một quyển truyện kể về cuộc
đời tầm thường, đơn sơ của một ông lão tiều phu
người Tây-Tạng. Tôi đã từng dịch quyển truyện trẻ
con này ra, và đã đăng báo trong một truyện ngắn tôi
viết tặng cho con trai đầu lòng. Ông lão tiều phu sinh ra
và lớn lên trên những rặng núi trắng tuyết ở xứ
Tây-Tạng. Từ ngày còn là một chú bé, ông đã rất mê
thả diều. Những khi đứng thả diều, chú bé cũng thường
thả hồn mình bay xa, bay vượt qua khỏi những rặng núi
cao bao bọc quanh ngôi làng chú ở. Chú mơ ước có ngày
sẽ được đi du lịch đến những xứ sở khác, viếng
thăm những nơi chốn xa xôi khác. Chú bé lớn hơn nữa,
trở hành một người đàn ông, lấy vợ, có con, sống an
bình cho đến ngày chú trở thành một ông lão. Đến khi
ông lão ra đi khỏi cuộc đờI này, ông chưa hề một lần
bước chân ra khỏi ngôi làng nơi ông đã sinh ra. Bây giờ
đã đến lúc ông phải chạm mặt với cái chết và chạm
mặt với những chọn lựa khác nhau trong giai đoạn chuyển
tiếp sau khi chết. Bao nhiêu những hình ảnh, âm thanh và
ánh sáng liên tục hiện ra, rầm rập, ào ào. Xuất hiện
trước mắt ông, bao nhiêu là những kỳ quang của vũ trụ,
những đền đài tráng lệ, thành phố nguy nga, những khu
rừng nhiệt đới, những dải biển biếc xanh, những nơi
ông mơ ước được đi thăm nhưng chưa bao giờ đuợc đặt
chân đến. Ông còn thấy nào chim bay, nào cá lội, từng
đoàn thú vật diễn hành tuần tự qua trước mặt ông.
Chỉ suýt chút nữa thôi là ông đã quyết định để đầu
thai làm một con chim hải âu đang lượn cánh bay tuyệt
đẹp, nhưng vô tình ông cũng nhìn thấy một đứa bé
đang đứng thả diều ngay phía dưới, trên bãi cát mịn
màng, tiếng cười của nó lắc rắc như thủy tinh trong
suốt, bay cao. Ông nhớ đến những cánh diều ngũ sắc
sặc sỡ của ông ngày còn thơ... Thế là ông đổi ý,
muốn đuợc làm người thay vì làm chim. Rồi bỗng nhiên
ông lại nhìn thấy một vùng núi cao không hiểu sao quen
thuộc lắm, gợi trong lòng ông nhiều nỗi rưng rưng. Ông
thấy thêm rất nhiều những ông bố và những bà mẹ trẻ
đang dang tay ra mời gọi ông hãy đến làm con của họ.
Ông nghĩ, tôi muốn trở lại nơi vùng núi cao đó, làm
con của một ông bố có vòng tay bao bọc, và của một bà
mẹ có nụ cười êm ái sưởi ấm lòng tôi. Nhưng trước
kia tôi đã từng làm con trai, giờ đây, tôi muốn được
đầu thai làm con gái, để xem làm con gái sẽ ra thế nào.
Và bức tranh minh hoạ cuối cùng trong sách vẽ hình một
cô bé gái thắt bím, mặc áo mang ủng sặc sỡ, đang thả
bay con diều ngũ sắc trên một rặng núi cao. Cô bé con
người Tây-Tạng, chào đời trên một rặng núi tuyết,
mê thả diều không kém gì ông lão tiều phu năm xưa!
Ở
trang sau chót của quyển truyện, tôi tìm thấy có ghi mấy
giòng giới thiệu tác giả Mordicai Gerstein, nhà văn chuyên
viết truyện nhi đồng, người đã từng đoạt được
một số giải thưởng cao quý trong lãnh vực văn chương
thiếu nhi. Trong mấy câu giới thiệu ngắn ngủi trên, có
kèm theo một giòng, chỉ một giòng, còn... ngắn ngủi hơn
thế nữa!. Chỉ một giòng thôi, mà lại chính là cái
chìa khóa rất khéo, rất tinh xảo, mở hé ra khung cửa
quá khứ trong tôi.
Chỉ
một giòng đó, như sau... "Tác giả cảm hứng câu
chuyện thiếu nhi này sau khi đuợc đọc quyển Tử-Thư
Tây-Tạng.
Tử
-Thư Tây-Tạng" Cho đến giờ phút ấy, tôi chưa bao
giờ nghe đến cả! Sách dành cho người chết? Sách viết
về cõi chết? Về cái chết? Tôi đứng vụt dậy khỏi
chiếc ghế mây đang ngồi trong căn phòng ngập ánh sáng,
một phòng sách nhỏ, với một ô cửa kính rộng đối
diện hướng Nam - căn phòng có nhiều ánh sáng nhất trong
một căn nhà thiếu ánh sáng. Phòng nào trong nhà cũng tối,
ngoại trừ căn phòng sách của chúng tôi! Trong cõi sáng
tầm thường bình dị của căn phòng sách nhỏ, tôi đã
tình cờ bắt được sợi dây-mối dẫn dắt tôi lần mò
tìm về lại với một cõi ánh sáng khác, một cõi bao la
không thể nghĩ bàn!
Nhưng...
phải mãi đến tận sau này, tôi mới hiểu ra được điều
đó!
Tôi
rời khỏi chiếc ghế đang ngồi, đi tìm chồng tôi để
hỏi xem anh có biết Tử -Thư Tây-Tạng là gì không? Anh
có bao giờ đọc nó chưa? Tôi tin là anh sẽ biết vì vốn
liếng về văn hoá và lịch sử thế giới của anh rất
dồi dào. Chúng tôi hay đùa với nhau rằng, lẽ ra anh phải
nên làm một nhà ngoại giao quốc tế, để có thể sử
dụng khả năng giao thiệp và vốn liếng ngôn ngữ, văn
hoá, lịch sử thế giới của mình, thay vì làm một kỹ
sư vi tính, và theo đuổi một công việc không mấy hứng
thú đối với anh! Tử -Thư Tây-Tạng? Anh bảo anh có nghe
nói đến, anh chưa đọc nó bao giờ, và anh thêm rằng
không phải chỉ người Tây-Tạng mà người Ai-Cập cũng
có một quyển sách viết riêng cho người chết, gọi là
Tử-Thư Ai-Cập, quyển đó thì anh nhớ mang máng là đã
có xem qua một lần.
Tôi
ôm câu trả lời của chồng tôi và ôm hình bóng quyển
kinh chưa một lần giáp mặt vào lòng, như ôm một chiếc
gối lông ngỗng. Chiếc gối mềm, êm, chỉ mới lần đầu
chạm tay vào thôi mà không hiểu sao đã thấy có nhiều
hơi hướm thơm tho, quen thuộc. Tôi gối đầu trên chiếc
gối ấy, ngủ những giấc ngủ mơ màng. Khi thức dậy,
khi làm công việc hằng ngày, khi bận rộn chăm lo cho con,
khi đi chợ, mua sắm bó rau, chiếc bánh, trong lòng rất
nhiều lúc thấy nhơ nhớ chiếc gối êm, thèm được ngã
đầu lên đó!
Khi
ấy, tôi chẳng có một khái niệm gì rõ rệt về Tây-Tạng
cả. Tôi không biết là Tây-Tạng đã bị Trung Cộng chiếm
đóng từ năm 1959. Tây-Tạng mất chủ quyền, bị buộc
phải sát nhập vào lãnh thổ của Trung-quốc. Hằng ngàn
tu viện bị phá hủy và kinh sách đã bị đốt ra tro.
Hằng chục ngàn tu sĩ phải sa vào vòng tù ngục, bị giết
hại, bị tra tấn. Ở một quốc gia mà một phần tư dân
số là tu sĩ Phật giáo sống hiền hoà trong tu viện, thì
chắc chắn, vũ khí của quốc gia ấy không phải là súng
đạn và bạo lực để có thể chống đỡ lại với bạo
lực xâm lăng của một cường quốc như Trung Hoa. Khi ấy,
tôi hoàn toàn không biết gì về những chuyện này, mãi
cho đến về sau...
Một
hôm, chúng tôi có dịp đi ra biển Laguna Beach, đó là một
vùng biển rất thơ mộng ở miền Nam tiểu bang California,
Hoa Kỳ. Phố chính của biển Laguna có những tiệm bán
tranh và sản phẩm tiểu công nghệ tuyệt đẹp. Nghệ sĩ
, hoạ sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, lãng tử... lang thang khắp
nơi, góc đường nào cũng có. Phố chính nằm giáp lưng
vào một rặng núi sững, rậm xanh. Có núi chở che, nên
thành phố mang nét vững vàng, yên ổn. Từ phố chính,
người ta có thể nhìn băng qua con lộ hẹp, băng qua một
công viên có bãi cỏ mượt, băng qua vùng cát óng, nhìn
suốt ra đến tận dải nước sẫm màu ngọc bích của
Thái Bình Dương. Thành phố nghệ sĩ này, lãng mạn đến
độ có thể biến thành một... cuộn phim tình đen trắng,
vưà cổ kính, vừa tân thời, có lúc ồn aò mời mọc,
có lúc im lắng mà như chỉ muốn gào lên những tiếng
sóng lòng mênh mang! Vợ chồng chúng tôi hay rủ nhau, dắt
nhau ra thành phố ven biển này vào bất kể lúc nào, có
khi còn thuê phòng trọ ngủ lại qua đêm (cho dù chúng tôi
chỉ ở cách đó chưa đầy 15 dặm). Chỉ để sáng hôm
sau được thức dậy trong... cuộn phim tình đen trắng! Ở
đó còn có một tiệm sách mà chúng tôi yêu thích lắm,
mang tên Farenheit 451. Đó là tên một quyển truyện khoa
học giả tưởng viết về những kẻ thù ghét văn chương
(một loại Tần Thủy Hoàng thời đại). Họ đã đi lùng
tìm đốt sạch ra tro hết tất cả sách vở khiến thức
nhân loại, nhưng cuối cùng, đành bó tay trước lòng can
đảm tột cùng của những người một lòng yêu quý sách,
chịu hy sinh tất cả để cho văn chương kiến thức được
trường tồn.
Và
cũng chính trong cái tiệm sách Farenheit 451 mà tôi đã tìm
thấy ra được tập Tử-Thư Tây-Tạng* lần đầu tiên!
Một điều tôi không bao giờ ngờ đến... Cái thành phố
làm bối cảnh đóng phim tình đã đem trả về cho tôi tập
kinh viết về sự chết và cái chết, về âm thanh và ánh
sáng, của một cõi bao la không thể nghĩ bàn.
Đó
là bản dịch bằng Anh-Ngữ của ông Walter Y. Evans-Wentz,
giáo sư đại học Oxford tại Anh quốc. Bản dịch này
được phát hành lần đầu vào năm 1927. Thật ra, đây là
một công trình nhuận biên của giáo sư Evans-Wentz khởi
đầu từ tài liệu được cung cấp bởi một số người
Tây-Tạng trong đó có ông Kazi Dawa Samdup. Ông Kazi Dawa
Samdup đã từng là thông dịch viên cho chính quyền
Anh-quốc ở tiểu quốc Sikkim cũng như cho tòa lãnh sự
của Tây-Tạng tại Ấn-quốc. Ông còn là thầy dạy ngôn
ngữ và thông dịch viên riêng của bà Alexandra David-Neel
trong thời gian bà trú ngụ tại xứ Sikkim. Đó là người
đàn bà đầu tiên đã khởi đầu những cuộc thám hiểm
Xứ Tuyết Tây-Tạng, một người đàn bà can đảm và phi
thường. Ông Kazi Dawa Samdup mất đi vào năm 1922, khoảng 5
năm trước khi bản dịch Tử-Thư Tây-Tạng đầu tiên
được giáo sư Evans-Wentz cho xuất bản, gây ra nhiều
tranh luận sôi nổi ngay trong vuơng triều Anh-quốc và
trong giới trí thức khoa bảng tại Luân-Đôn thời bấy
giờ.
Buổi
tối trở về phòng trọ ven biển, tôi nằm nhẩn nha đọc
quyển Tử-Thư của Evans-Wentz bên cạnh chồng và chỉ
chừng chưa đầy một chục trang sau đó, tôi đã cảm
thấy một nỗi thất vọng tràn dâng. Chưng hửng! Chiếc
gối lông ngỗng mà tôi hằng ao ước và mơ tưởng sao
không giống một chiếc gối lông ngỗng chút nào, nó nặng
nề, trì trì như một tảng đá. Tôi không thể phủ nhận
công trình đồ sộ cũng như hông thể phủ nhận sự dốc
tâm dốc lòng của giáo sư Evans-Wentz, nhưng phải vất vả
lắm, tôi mới có thể bắt ý và đoán mù mờ được về
những điều ông đã nhuận dịch. Văn phong của ông là
văn phong của thời đại... của ông, nó cứng ngắc,
thuần lý, thấm nhuần rất nhiều tư tưởng bác học và
triết học Tây Phương, kể cả thần-học (theology). Dùng
văn phong đó một cách cứng ngắc để giảng dịch về
Phật pháp và về những điều rất trừu tượng không
hiện diện trong ngôn ngữ bình thường hằng ngày, thật
là một việc làm khó khăn cùng tột. Tôi gấp sách lại,
còn nhớ rõ cảm giác hụt hẫng và chán nản như chiếc
lưới mỏng giăng quanh quấn lấy người mình. Cảm giác
từa tựa giống hai con mắt đang chau mày nhìn vào hai con
mắt khác của mình (cũng đang chau mày) trong gương! Tự
hỏi, rồi tự trả lời. Sao mình lại tệ đến mức này,
sao chẳng thể nào thật sự nắm bắt được cái gì hết
cả? Sáng ra, tôi nói với chồng tôi, đây là một quyển
kinh đọc bên linh sàng người chết, tả cho họ biết họ
sẽ thấy những gì sau khi chết, lại có đầy đủ từng
chi tiết hướng dẫn hương linh người chết phải làm
gì, nghĩ gì, hành động như thế nào trong 49 ngày sau khi
chết. Đại khái là như vậy, nhưng đọc nhức đầu lắm,
hết vị Thần này hiện ra đến vị Thần kia hiện đến,
càng đọc càng thấy rối mù, chẳng thể ghi nhớ lại
được gì trong đầu hết! Chồng tôi... xoa đầu tôi, anh
có thói quen nựng vợ lạ lùng như thế, rồi anh bảo đùa
với tôi là, mai mốt khi nào cưng lớn lên thêm chút nữa
thì đến lúc đó cưng sẽ hiểu được nhiều hơn.
Năm
đó, tôi đúng ba mươi tuổi, không lớn rồi thì là gì?
Đợi lớn lên thêm nữa thì biết đợi đến bao giờ,
đợi đến... già ư? Người trẻ thường chẳng bao giờ
quan tâm đến cái chết. Đó là đề tài muôn thuở của
người già khi người già đến tuổi biết rằng cái chết
sẽ là chiếc trạm ngưng nghỉ cuối cùng trong đời mình,
nơi bao vạn ức người trước đã đi qua, và bao vạn ức
người sau sẽ phải tìm đến. Tôi bắt đầu đặt câu
hỏi về cái trạm xe cuối cùng đó cũng vào khoảng năm
lên tám lên chín tuổi, khi ngồi bên thềm nhà xem Bà tôi
làm lễ hoá vàng, tụng kinh hoá độ. Câu hỏi không phải
"chết là gì", cũng không phải "chết sẽ ra
sao". Không triết lý sâu xa, hiện thực, hay... không
hiện thực! Câu hỏi của một đứa bé con, khi ấy, chỉ
đơn giản là... không biết mình sẽ nhớ đến ai nhiều
nhất, nhớ đến cái gì nhiều nhất khi mình chết, bỏ
lại sau lưng không biết bao nhiêu là kỷ niệm tươi hồng,
búp bê, sách truyện, bố mẹ, bà ngoại, em trai, cô giáo,
chiếc gối mềm chưa từng một ngày xa rời, những hạt
mưa lăn tăn như hạt ngọc... Mấy câu hỏi buồn cười
ấy, vậy mà, hoá ra, cuối cùng, lại là những câu nên
hỏi! Điều này, mấy chục năm sau, tôi mới thấu hiểu
được, mù mờ như sương nhàn nhạt khi tôi bắt đầu
đọc sách dịch Tử-Thư lần đầu. Và cứ dần dần sáng
lên ánh trời quang đãng trong những lần nghiền ngẫm
Tử-Thư sau này qua tay những người dịch khác, sau ông
Evans-Wentz. Tôi hiểu ra được rằng chính những gì mình
nghĩ đến, nhớ đến, ước ao đến trong trạng thái giao
chuyển sau khi chết, những cảm giác đó, những hình
tượng đó, những mong tưởng đó sẽ chính là chiếc bè
đưa tôi qua sông, đến bến. Mà bến sông, trong hay đục,
thấp hay cao, an lành hay sóng gió, cũng tùy thuộc rất
nhiều vào đó, vào những cảm giác, những hình tượng,
những mong tưởng dùng làm chiếc bè đưa tôi ra đi khỏi
cuộc đời này. Những điều vừa kể trên, tưởng rất
đơn sơ mà thật ra là thăm thẳm sâu không trông thấy
đáy, trân châu ngọc quý cũng chẳng thể sánh bằng, như
một mảnh ván gỗ già nua bỗng biến thành chiếc phao cứu
người trên biển cả. Tôi sẽ viết thêm sau về những
điều này trong những chương sắp tới, những khám phá
lẽ dĩ nhiên không phải của tôi, về cái cõi sáng không
thể nghĩ bàn của giai đoạn giao chuyển sau khi chết.
Rời
phòng trọ ven biển, tôi đem bản dịch quyển Tử -Thư
của ông Evans-Wentz về nhà, cất lên kệ, lâu lâu vẫn
nhớ đến nó, nhưng chẳng bao giờ có can đảm đọc lại
một cách nghiêm chỉnh cho tới nơi tới chốn. Một đôi
khi, tôi lấy nó xuống, ngồi ngắm nghía cái bìa màu đen
tuyền có vẽ hình một ngọn lửa cháy đỏ rực, lật
lật vài trang ra xem, nhìn chữ mà như không thấy chữ,
mân mê, ngẫm nghĩ một hồi rồi lại cất nó trở lại
lên trên kệ.
Khoảng
thời gian ấy, con trai đầu lòng của chúng tôi sắp sửa
tròn hai tuổi. Chúng tôi rời căn nhà nhiều bóng tối hơn
ánh sáng ở Irvine, dọn đến một căn nhà mới rất xinh
xắn lưng đồi Laguna Niguel, gần vịnh Dana thuộc phía Nam
Cali. Hoàn toàn khác hẳn! Căn nhà mới là một cõi sáng
mênh mông! Ánh nắng hồng và tươi rói luôn luôn tràn vào
những khung cửa kính lớn, từ sớm tinh mơ cho đến ráng
chiều, không ngưng một phút. Lâu lâu chúng tôi có muốn
đi... trốn nắng một chút cũng chẳng thể được - chẳng
biết trốn vào đâu được trong căn nhà đó! Đó là một
căn-nhà-mặt-trời ! Sau nhà là một triền đồi thoai
thoải, mởn xanh. Mùa xuân hoa vàng mọc tràn lan nhiều như
... bươm bướm, từng đàn từng đàn hớn hở đuổi bắt
nhau trên mảng đồi non! Tôi nghỉ làm ở nhà từ ngày
mang thai con đầu lòng, chưa bao giờ ở trong một căn nhà
đem đến cho tôi nhiều niềm vui mới toanh, nhẹ nhàng như
thế. Hằng ngày, tôi lái xe xuống vịnh, dẫn con đi dạo
bộ hoặc cho con chơi cát, hai mẹ con cũng vẫn thường
hay ném bánh vụn cho chim hải âu ăn. Cuối tuần, ba bố
mẹ con dẫn nhau ra vịnh, ngồi ngắm những cánh thuyền
buồm thong thả giong xa, những cánh buồm nõn nà như có
phết kem trắng mịn, lướt êm trên mặt nước với phong
thái ung dung tự tại của một kẻ nhàn cư !
Đằng
sau giải biển lấp lánh ánh hồng, an bình và trải rộng,
những rặng núi ở Tây-Tạng cứ mờ nhạt dần đi. Cả
quyển Tử-Thư trong tôi cũng thế! Mọi thứ nằm yên, thụ
động, ngái ngủ, giống như một đưá bé say ngà ngà
trên bờ vai của bố nó hằng đêm …
3.
Bỏ
rơi Evans-Wentz, tôi bắt đầu đọc sách dịch của Nguyên
Phong, quyển đầu tiên mang tựa Đường Mây Qua Xứ Tuyết,
một loại tự truyện của một vị Lạt-Ma Tây Tạng tên
Govinda. Đến nay, tôi không còn nhớ được hầu hết tất
cả những gì đã đọc được trong quyển sách đó, chỉ
duy có một khung cảnh là không sao quên được. Đó là
cảnh Lạt-Ma Govinda miêu tả gia đình ông tưng bừng nôn
nức chuẩn bị cho ông lên đường đi xuất gia làm một
Lạt-Ma tí hon... Gia đình ông là một gia đình khá giả,
thuộc giai cấp thượng lưu, kẻ hầu người hạ tấp nập
ra vào lo sắp đặt cho những nghi lễ cần thiết trong dịp
tiễn ông đi tu. Những buổi tiệc thết đãi họ hàng,
làng xóm, những lời chúc tụng, những túi xách hành
trang, bà mẹ ông trong bộ áo màu sắc tươi vui đẹp mắt
nhất, nữ trang lịch lãm nhất, tất cả những gì quý
nhất, sáng nhất, trang trọng nhất, người ta mang ra mặc
vào trên người trong dịp ấy. Tôi chỉ nhớ rõ cảm giác
quen thuộc một cách... bất thường (!) khi đọc về cảnh
này, như đã từng đựơc chứng kiến, từng được tham
dự rất nhiều lần. Người Tây-Tạng tổ chức lễ xuất
gia cho người thân trong gia đình như tổ chức một... lễ
cưới, đó là dịp hoan hỉ nhất, mãn nguyện nhất, được
nhiều lời chúc phúc nhất. Theo tục lệ cổ truyền, họ
có thể không cả mặc quần áo đẹp trong ngày lễ cưới,
nhưng khi dự lễ xuất gia, khi đến thăm thầy, thăm chùa
trong những ngày lễ lớn, họ sẽ mặc lên người những
gì lành lặn nhất, đẹp đẽ quí giá nhất, như thể
niềm tôn quý của họ đối với cái đẹp của Phật
pháp không những được ủ, tẩm từ bên trong, mà còn
toát cả ra đến bên ngoài .
Quyển
sách dịch thứ nhì của Nguyên Phong mà tôi đọc mang tên
Hoa Sen Trên Tuyết. Nội dung của sách viết về cuộc hành
trình đi tìm chân lý cuộc đời của một vị bác sĩ y
khoa Hoa Kỳ. Cuộc hành trình ấy đã dẫn dắt ông ta đến
tận thành phố Dharamsala, Ần Độ - thủ đô tị nạn của
người Tây-Tạng và là hiện nơi cư ngụ của Đức
Đạt-Lai Lạt-Ma. Thế giới bắt đầu chú ý đến Đức
Đạt-Lai Lạt-Ma rất nhiều kể từ khi Ngài được trao
giải Nobel Hoà-Bình vào năm 1989. Tôi đọc sách dịch của
Nguyên Phong, đọc tập hồi ký Tự Do Trong Lưu Đày của
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, đọc thêm nhiều tài liệu báo chí
Anh-ngữ tường thuật những hoạt động của Ngài.
Bỗng
một hôm, như người tỉnh ngủ, tôi bật kêu lên:
-
Lạt-Ma! La-ma là... Lạt-Ma!
Ngay
khoảnh khắc ấy, tôi tỉnh ngủ... thật! Tôi thấy mình
bao năm nay sao ngờ nghệt quá! Y như người vừa tỉnh
khòi bùa mê, bước ra khỏi đêm tăm tối, thấy mọi thứ
rõ mồn một như ban ngày.
"Lama"
là tiếng nguyên thủy của người Tây-Tạng để gọi một
nhà sư, một vị thầy, người hướng dẫn mình về Phật
Pháp. Sách báo Anh-ngữ dùng lại nguyên âm từ ngữ đó.
"Lama", giống như là "the Dalai Lama", tức
"Đức Đạt-Lai Lạt-Ma". Chỉ có người Việt bắt
chước người Trung Hoa dịch âm "Lama" ra thành
"Lạt-Ma", và tôi, cái đứa bé mơ mộng, ngớ
ngẩn năm lên tám tuổi, mới chỉ nhận biết ra được
điều này sau hơn mấy chục năm... mơ ngủ mà thôi!
4.
Gần
hai năm nay, căn nhà riêng của chúng tôi bỗng trở thành
nơi tiếp đón các vị Đại Lạt-Ma Tây-Tạng đến vùng
này giảng pháp. Có khi mười ngày. Có khi hai tuần. Có
khi chỉ vài bữa. Các vị là trưởng lão thuộc giòng
phái Drikung Kagyu, là một hệ trong bốn tông phái chánh
của Phật Giáo Tây-Tạng. Nền tảng của phái Drikung
Kagyu, cũng giống như những tông phái Đại-Thừa khác, là
phát triển tâm Bồ Đề và thực hành Bồ-Tát-đạo. Tuy
nhiên, một trong những chuyên biệt nổi tiếng nhất của
phái Drikung Kagyu lại là pháp tập Phowa, tức pháp chuyển
thần thức khi ta bắt đầu bước vào tiến trình chết
và cả sau khi chết. Tôi chẳng còn phải đi lùng tìm
Tử-Thư ở đâu xa. Có nhiều ngày tôi chỉ cần... ngồi
yên là sẽ được nghe giảng giải tỉ mỉ tận tình về
cái chết và tiến trình chuẩn bị cho cái chết.
Mùa
hè năm 1998, chúng tôi chuẩn bị rời Cali để dọn về
miền Đông Hoa Kỳ. Khoảng một vài tuần trước đó,
đang ngồi gà gật giữa trưa, tôi mơ màng thoáng thấy
hiện ra một vị sư mặc y vàng đứng trước mặt tôi,
khuôn mặt vị ấy hiền từ sáng rỡ. Về lại miền Đông
không lâu sau, một giấc mơ nữa lại đến với tôi. Tôi
thấy tôi ngồi trong căn bếp với mẹ tôi cùng với một
vị sư khác. Vị này quấn y màu rượu chát đỏ sẫm. Cả
ba chúng tôi đang ngồi uống trà, và vui vẻ trò truyện
với nhau chung quanh một chiếc bàn tròn. Lúc ấy, tôi vừa
nhắc lại một câu hỏi của mẹ tôi và đang chờ để
được nghe câu trả lờI của vị sư ấy. Khi thức giấc,
nhớ lại về giấc mơ lạ, tôi phải bật cười chính
mình! Nằm mơ thấy một vị sư ngồi trong bếp nhà mình
thay vì ngồi trang nghiêm nơi chánh điện trong chùa thì
thật là... mộng mơ quá đáng! Nhưng tôi nào có ngờ! Lẽ
dĩ nhiên, làm sao có thể ngờ!
Ở
miền Đông, căn nhà của chúng tôi nằm trên một miếng
đất tương đối rộng, sau nhà là khu rừng thưa nằm
lưng chừng đồi. Đất rừng cũng thuộc vào địa phận
đất của chúng tôi, nhưng đất rừng cao hơn đất nhà
cả hơn mười mấy bậc tam cấp. Căn nhà và khu rừng
thay đổi tùy theo mùa. Lam, tím, hồng, mơn mởn mùa xuân,
xanh rì rậm rạp muà hè, vàng ối đỏ rực mùa thu, nõn
nà trắng toát mùa đông. Chẳng khác gì trong thơ Đường!
Cỏ lam, trà biếc, rượu vàng, tuyết trắng, màu sắc rất
yêu kiều, ngời ngời từng nét sóng sánh. Thoắt một
cái, bỗng một hôm, căn nhà bốn muà của chúng tôi trở
thành nơi tụ hội của các vị Lạt-Ma Tây-Tạng, và rất
đông những người từ khắp các nơi đổ về nghe pháp,
không phải người Việt, mà là người Mỹ da trắng,
người Mỹ gốc Phi châu, người Gia-Nã-Đại, người Đức,
người Nga, người Do Thái, người Tây-Ban-Nha, người
Venezuela, người Ần, người Đài Loan, người Trung-Hoa,
người Tây-Tạng... Chẳng khác nào một trụ sở
Liên-Hiệp-Quốc tí hon!
Nhân
duyên bất ngờ, hết sức kỳ lạ, sâu đậm một cách
khó lường. Một năm bốn muà. Mỗi muà một vị Đại
Lạt-Ma. Chúng tôi đâm ra bận rộn hết cả bốn mùa.
Những cội rễ của tiền kiếp... trổ hoa, đôi lúc làm
cho chính tôi phải kinh ngạc!
Những
buổi sáng nấu xong món cháo bằng lúa mạch hầu thầy
tôi, Garchen Triptul Rinpoche, vị Đại-Lạt-Ma Hoá-Thân sinh
trưởng ở vùng Kham, miền Đông Tây-Tạng, chúng tôi hay
ngồi ăn chung với thầy trong căn phòng bếp hoặc phòng
ăn nhỏ. Lúc nào ánh nắng ban mai cũng chan hoà, vàng óng
và tươi như những nhánh lau non, phết lên khắp nơi trong
phòng một màu lóng lánh! Tôi mới bắt đầu học nấu
món cháo luá mạch từ khi có các vị Lạt-Ma đến ngụ
trong nhà, sáng nào cũng một món đó. Lúa mạch ngọt thơm
tinh khiết, nấu chung với nước, sữa tươi, mật ong, nho
khô, quế bột, cộng thêm với hạnh nhân thái mỏng.
Người Tây-Tạng có một món cháo đặc biệt hơi tương
tự như món cháo lúa mạch của tôi, họ gọi là tsampa.
Thầy tôi, vị Đại-Lạt-Ma nổi tiếng là bậc giác ngộ,
đã được tuyên nhận là một Hoá-Thân và đã đi tu từ
năm lên bảy tuổi. Thầy tôi kể là tại các tu viện
Tây-Tạng, sáng nào cũng như sáng nào, cả chùa cũng điểm
tâm chỉ bằng một món tsampa! Bây giờ cũng thế, không
khác. Sáng nào tôi cũng nấu một nồi cháo sáng thật to,
và dọn thêm những lát bánh làm bằng luá mì hoặc bằng
ngũ cốc trét đầy bơ mặn. Đó là thời gian yên lắng
nhất và được gần gũi với thầy tôi nhất. Nhiều vị
Đại-Sư cũng đã ngồi ăn sáng trong căn phòng bếp đó,
phòng ăn đó. Tôi đã học được rất nhiều từ quý
thầy ngay trong những giây phút sớm mai đơn sơ , đôi lúc
còn nhiều hơn cả những khi ngồi nghe thuyết pháp. Hỏi
thầy tôi những câu hỏi không đầu không đuôi vào buổi
sáng, hỏi những câu hỏi có phần thâm hậu hơn một
chút cũng vào buổi sáng, được thầy đánh thức tâm
mình dậy bằng những câu trả lời thấu đáo cho những
câu hỏi mình chưa kịp lên tiếng hỏi cũng buổi sáng.
Nụ cười nở tươi dung lượng của thầy tôi đọng lại
trong nắng, tỏa ra khắp nơi. Tôi tưởng tượng đến
những nụ cười dung lượng y như thế trong hai mươi năm
thầy tôi ở trong trại tù Trung Cộng kể từ sau khi
Tây-Tạng bị Trung Cộng hòan toàn cưỡng chiếm. Chưa bao
giờ tôi nghe thầy lên tiếng kết án một ai, kể cả
những kẻ đã cầm tù thầy. Người Tây-Tạng kể, trong
trại tù, thầy đã kiên trì tiếp tục học pháp của Đức
Phật, học hạnh nhẫn nhục của đất, học tánh từ bi
của Bồ-Tát, thầy toạ thiền, nhập định liên tục, và
chính ở trong tù, thầy tôi đã đắc pháp. Nắng sớm rồi
cũng có lúc tan, nhưng nụ cười và tấm lòng dung lượng
của thầy đã vượt ra khỏi cõi vô thường tạm bợ
này. Nên những buổi điểm tâm tràn nắng mai và ngập
tấm lòng từ bi của thầy, cho riêng chúng tôi, và cho tất
cả chúng sinh, chính là những bài pháp thoại quý báu
lắm! Tôi ao ước có ngày đủ được nhân duyên để có
thể ghi lại hết những gì tôi học được từ thầy
tôi, từ tất cả những vị Lạt-Ma đã đến ngụ trong
căn nhà quanh năm bốn mùa thay đổi, và mỗi bình minh, đã
cùng ngồi ăn những bát cháo lúa mạch nghi ngút khói với
chúng tôi.
Nửa
đời người, bây giờ tôi mới biết tại sao hai tiếng
Lama đã từng theo đuổi tôi từ khi còn bé thơ, theo đuổi
suốt! Bây giờ thì đi đâu cũng thấy Lama hết, chỉ thấy
toàn Lama, phòng khách, phòng ăn, căn bếp, sân trước,
rừng sau, lưng đồi!
(Trích Bút Ký Buổi Sáng, Điểm-Tâm Cùng Lạt-Ma)
No comments:
Post a Comment